9 | GEN 1:9 | Kế đến, Đức Chúa Trời phán: “Nước dưới trời phải tụ lại, và đất khô phải xuất hiện.” Liền có như thế. |
35 | GEN 2:4 | Đó là gốc tích việc Đức Chúa Trời Hằng Hữu sáng tạo trời đất. Khi Đức Chúa Trời Hằng Hữu mới sáng tạo trời đất, |
80 | GEN 3:24 | Khi đuổi hai người ra, Đức Chúa Trời Hằng Hữu đặt các thiên thần cầm gươm chói lòa tại phía đông vườn Ê-đen, để canh giữ con đường dẫn đến cây sự sống. |
81 | GEN 4:1 | A-đam ăn ở với Ê-va, vợ mình, và bà có thai. Khi sinh Ca-in, bà nói: “Nhờ Chúa Hằng Hữu, tôi sinh được một trai!” |
82 | GEN 4:2 | Bà lại sinh A-bên, em Ca-in. Khi họ lớn lên, A-bên chăn nuôi gia súc, còn Ca-in làm nông. |
88 | GEN 4:8 | Lúc ấy, Ca-in nói với A-bên: “Anh em mình ra ngoài đồng đi.” Khi hai anh em ra đó, Ca-in xông lại giết A-bên. |
109 | GEN 5:3 | Khi A-đam 130 tuổi, ông sinh một con trai giống như mình và đặt tên là Sết. |
112 | GEN 5:6 | Khi Sết 105 tuổi, ông sinh Ê-nót. |
115 | GEN 5:9 | Khi Ê-nót 90 tuổi, ông sinh Kê-nan. |
116 | GEN 5:10 | Sau khi sinh Kê-nan, Ê-nót còn sống thêm 815 năm và sinh con trai con gái. |
118 | GEN 5:12 | Khi Kê-nan 70 tuổi, ông sinh Ma-ha-la-lê. |
119 | GEN 5:13 | Sau khi sinh Ma-ha-la-lê, Kê-nan còn sống thêm 840 năm và sinh con trai con gái. |
120 | GEN 5:14 | Vậy Kê-nan thọ 910 tuổi. |
121 | GEN 5:15 | Khi Ma-ha-la-lê 65 tuổi, ông sinh Gia-rết. |
124 | GEN 5:18 | Khi Gia-rết 162 tuổi, ông sinh Hê-nóc. |
127 | GEN 5:21 | Khi Hê-nóc 65 tuổi, ông sinh Mê-tu-sê-la. |
131 | GEN 5:25 | Khi Mê-tu-sê-la 187 tuổi, ông sinh Lê-méc. |
134 | GEN 5:28 | Khi Lê-méc 182 tuổi, ông sinh một con trai. |
193 | GEN 8:9 | Khi bồ câu không tìm được chỗ đáp xuống, nó liền bay trở về tàu với Nô-ê, vì mực nước còn cao. Nô-ê đưa tay đỡ lấy bồ câu và đưa vào tàu. |
212 | GEN 9:6 | Kẻ giết người phải bị xử tử, vì Đức Chúa Trời đã tạo nên loài người theo hình ảnh Ngài. |
220 | GEN 9:14 | Khi nào Ta giăng mây trên trời, và cầu vồng xuất hiện trên mây, |
222 | GEN 9:16 | Khi Ta thấy cầu vồng trên mây, Ta sẽ nhớ lại lời hứa vĩnh viễn của Ta với con và mọi sinh vật trên đất.” |
230 | GEN 9:24 | Khi Nô-ê tỉnh rượu, biết được việc Cham đã làm cho mình, |
239 | GEN 10:4 | Con trai Gia-van là Ê-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim, và Rô-đa-nim. |
246 | GEN 10:11 | Kế đó, lãnh thổ của ông bành trướng sang xứ A-sy-ri. Ông xây thành Ni-ni-ve, Rê-hô-bô-ti, Ca-la, |
269 | GEN 11:2 | Khi đến phương đông, họ tìm thấy đồng bằng trong xứ Si-nê-a và định cư tại đó. |
281 | GEN 11:14 | Khi Sê-lách được 30 tuổi, ông sinh Hê-be. |
283 | GEN 11:16 | Khi Hê-be được 34 tuổi, ông sinh Bê-léc. |
285 | GEN 11:18 | Khi Bê-léc được 30 tuổi, ông sinh Rê-hu. |
287 | GEN 11:20 | Khi Rê-hu được 32 tuổi, ông sinh Sê-rúc. |
289 | GEN 11:22 | Khi Sê-rúc được 30 tuổi, ông sinh Na-cô. |
291 | GEN 11:24 | Khi Na-cô được 29 tuổi, ông sinh Tha-rê. |
293 | GEN 11:26 | Khi Tha-rê được 70 tuổi, ông sinh Áp-ram, Na-cô, và Ha-ran. |
298 | GEN 11:31 | Tha-rê đem con trai là Áp-ram, con dâu Sa-rai (vợ của Áp-ram), và cháu nội là Lót (con trai Ha-ran) ra khỏi U-rơ của người Canh-đê, để đến xứ Ca-na-an. Khi đến xứ Ha-ran, họ định cư. |
303 | GEN 12:4 | Vậy, Áp-ram ra đi, như lời Chúa Hằng Hữu đã dạy. Lót cùng đi với ông. Khi rời khỏi Ha-ran, Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi. |
310 | GEN 12:11 | Khi sắp vào lãnh thổ Ai Cập, Áp-ram bảo Sa-rai: “Tôi biết bà rất đẹp. |
338 | GEN 14:1 | Lúc ấy, chiến tranh xảy ra trong xứ. Am-ra-phên, vua Si-nê-a; A-ri-óc, vua Ê-la-sa; Kết-rô-lao-me, vua Ê-lam; và Ti-đanh, vua Gô-im |
341 | GEN 14:4 | Trong mười hai năm, họ tùng phục Kết-rô-lao-me, nhưng sang năm thứ mười ba, họ nổi loạn. |
342 | GEN 14:5 | Một năm sau, Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh đem quân chinh phạt người Rê-pha-im tại Ách-ta-rốt Cát-na-im, người Xu-xim tại Cham, người Ê-mim tại đồng bằng Ki-ri-a-ta-im, |
346 | GEN 14:9 | để chống lại Kết-rô-lao-me, vua Ê-lam; Ti-đanh, vua Gô-im; Am-ra-phên, vua Si-nê-a; và A-ri-óc, vua Ê-la-sa—(năm vua chống bốn.) |
351 | GEN 14:14 | Khi Áp-ram hay tin Lót bị bắt, ông liền tập họp 318 gia nhân đã sinh trưởng và huấn luyện trong nhà, đuổi theo địch quân cho đến Đan. |
354 | GEN 14:17 | Sau khi chiến thắng Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh, Áp-ram quay về. Vua Sô-đôm ra đón người trong Thung lũng Các Vua. |
378 | GEN 15:17 | Khi mặt trời lặn và trời đã tối, bỗng có một lò lửa bốc khói, và một ngọn lửa cháy giữa các sinh tế bị phân đôi. |
380 | GEN 15:19 | đất của các dân Kê-nít, Kê-ni, Cát-mô-ni, |
399 | GEN 17:1 | Khi Áp-ram chín mươi chín tuổi, Chúa Hằng Hữu lại xuất hiện và phán: “Ta là Đức Chúa Trời Toàn Năng, con hãy sống một cuộc đời hoàn hảo trước mặt Ta. |
416 | GEN 17:18 | Kế đó, Áp-ra-ham thưa với Đức Chúa Trời: “Ước gì Ích-ma-ên được sống dưới ơn phước của Ngài!” |
433 | GEN 18:8 | Áp-ra-ham đem sữa và bơ cùng thịt con bê đã nấu xong, dọn ra trước mặt ba người ấy. Khi họ ăn, Áp-ra-ham đứng cạnh hầu bàn dưới tàng cây. |
450 | GEN 18:25 | Chắc chắn Chúa sẽ không làm việc ấy, diệt người công chính chung với người ác! Không bao giờ Chúa đối xử người công chính và người ác giống như nhau! Chắc chắn Chúa không làm vậy! Lẽ nào Vị Thẩm Phán Chí Cao của cả thế giới lại không xử đoán công minh?” |
458 | GEN 18:33 | Khi nói chuyện với Áp-ra-ham xong, Chúa Hằng Hữu ra đi. Áp-ra-ham quay về trại. |
487 | GEN 19:29 | Khi Đức Chúa Trời tiêu diệt các thành phố vùng đồng bằng, Ngài vẫn nhớ đến Áp-ra-ham và cứu Lót thoát khỏi cái chết rùng rợn của người Sô-đôm. |
500 | GEN 20:4 | Vì A-bi-mê-léc chưa đụng đến Sa-ra nên vua tự bào chữa: “Không lẽ Chúa diệt người vô tội? |
509 | GEN 20:13 | Khi Đức Chúa Trời sai tôi đi đây đó xa quê hương, tôi bảo nàng: ‘Dù đi đâu, xin bà cũng hãy xưng bà là em gái tôi.’” |
529 | GEN 21:15 | Khi bình đã hết nước, A-ga để con dưới một bụi cây nhỏ. |
535 | GEN 21:21 | Khi cư ngụ tại hoang mạc Pha-ran, Ích-ma-ên được mẹ cưới cho một cô vợ người Ai Cập. |
569 | GEN 22:21 | Con đầu lòng tên U-xơ, các con kế là Bu-xơ, Kê-mu-ên (tổ phụ của A-ram), |
570 | GEN 22:22 | Kế-sết, Ha-xô, Phin-đát, Díp-láp, và Bê-tu-ên. |
574 | GEN 23:2 | bà qua đời tại Ki-ri-át A-ra-ba, tức Hếp-rôn, thuộc đất Ca-na-an. Áp-ra-ham để tang và than khóc vợ. |
585 | GEN 23:13 | và đáp lời Ép-rôn trong khi dân chúng lắng tai nghe: “Không dám, tôi chỉ xin mua và trả giá sòng phẳng. Xin anh vui lòng nhận tiền, tôi mới dám an táng vợ tôi.” |
606 | GEN 24:14 | Khi con xin cô nào cho con uống nước, mà cô ấy đáp: ‘Ông cứ uống đi; tôi sẽ cho bầy lạc đà ông uống nữa,’ xin Chúa cho cô ấy đúng là người Chúa chỉ định cho Y-sác, đầy tớ Chúa. Nhờ đó, con mới biết rõ Chúa đã tỏ lòng nhân từ với chủ con.” |
614 | GEN 24:22 | Khi đàn lạc đà uống nước xong, quản gia lấy ra một chiếc khoen vàng nặng khoảng năm chỉ và một đôi vòng vàng, mỗi chiếc khoảng năm lạng. |
643 | GEN 24:51 | Kìa, Rê-bê-ca đứng trước mặt anh đó. Anh hãy rước nó về làm vợ cho con trai chủ anh, như Chúa Hằng Hữu đã phán bảo.” |
660 | GEN 25:1 | Áp-ra-ham tái hôn và cưới Kê-tu-ra. |
663 | GEN 25:4 | Ma-đi-an sinh năm con trai: Ê-pha, Ê-phe, Hê-nóc, A-bi-đa, và Ên-đa. Đó là dòng dõi bà Kê-tu-ra. |
672 | GEN 25:13 | Các con trai của Ích-ma-ên là: Trưởng nam Nê-ba-giốt, Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-sam, |
674 | GEN 25:15 | Ha-đa, Thê-ma, Giê-thu, Na-phích, và Kết-ma. |
679 | GEN 25:20 | Khi được 40 tuổi, Y-sác cưới Rê-bê-ca, con gái của Bê-tu-ên, em của La-ban, người A-ram ở xứ Pha-đan A-ram. |
691 | GEN 25:32 | Ê-sau đáp: “Khi người ta đói gần chết, người ta còn giữ quyền trưởng nam làm gì.” |
700 | GEN 26:7 | Khi người dân hỏi thăm Rê-bê-ca, Y-sác giới thiệu: “Đây là em gái tôi.” Y-sác sợ rằng nếu nói “nàng là vợ tôi” thì họ sẽ giết ông đi để cướp nàng, bởi vì Rê-bê-ca là một người đàn bà tuyệt sắc. |
715 | GEN 26:22 | Y-sác dời qua một nơi khác và đào được một giếng mới, không bị ai tranh giành, nên Y-sác đặt tên là “Giếng Khoảng Khoát,” vì người nói: “Chúa đã cho chúng ta ở nơi rộng rãi; chúng ta sẽ thịnh vượng trong xứ này.” |
733 | GEN 27:5 | Khi Y-sác và Ê-sau nói chuyện, Rê-bê-ca nghe được. Sau đó, Ê-sau đi săn thú rừng. |
773 | GEN 27:45 | và quên đi việc con đã làm. Lúc đó, mẹ sẽ tin cho con biết mà trở về nhà. Không lẽ mẹ phải mất cả hai đứa con trong một ngày sao?” |
802 | GEN 29:6 | Gia-cốp tiếp: “Ông ấy có mạnh khỏe không?” Họ đáp: “Ông ta vẫn khỏe mạnh. Kìa, cô Ra-chên, con ông ấy, đang dẫn bầy chiên đến kia kìa!” |
811 | GEN 29:15 | Một hôm, La-ban bảo Gia-cốp: “Không lẽ vì tình bà con ruột thịt mà cháu làm việc không công sao? Cháu muốn cậu trả lương bao nhiêu?” |
822 | GEN 29:26 | La-ban giả lả: “Phong tục đây là thế! Không được gả em trước chị sau. |
872 | GEN 30:41 | Khéo hơn nữa, Gia-cốp chỉ đặt các cành lột vỏ trước các dê và chiên mập mạnh. |
874 | GEN 30:43 | Kết quả là bầy gia súc của Gia-cốp gia tăng nhanh chóng. Gia-cốp ngày càng giàu; ông mua được nhiều nô lệ, lạc đà, lừa, và trở thành cự phú. |
884 | GEN 31:10 | Việc xảy ra thế này: Khi bầy vật giao phối, anh nằm mộng thấy các con dê đực nhảy cỡn lên đều là những con có vằn, có đốm, và có vệt xám cả. |
931 | GEN 32:3 | Khi Gia-cốp thấy họ, ông reo mừng: “Đức Chúa Trời ngự tại nơi này!” Rồi ông gọi chỗ ấy là Ma-ha-na-im. |
939 | GEN 32:11 | Thật ra, con chẳng xứng đáng gì, nhưng Chúa đã thương xót và giữ đúng tất cả lời Ngài hứa. Khi con ra đi, và khi qua sông Giô-đan chỉ có hai bàn tay trắng; mà nay con có hai đoàn người này với bao nhiêu tài sản. |
946 | GEN 32:18 | Gia-cốp cũng dặn người dẫn bầy thứ nhất: “Khi Ê-sau gặp anh và hỏi: ‘Chủ anh là ai? Anh đi về đâu? Bầy vật này thuộc về ai?’ |
971 | GEN 33:10 | Gia-cốp khẩn khoản: “Không, em nài xin anh vui lòng nhận các lễ vật ấy. Vì gặp được anh cũng như gặp được Đức Chúa Trời rồi; anh đã vui lòng tiếp đón em. |
976 | GEN 33:15 | Ê-sau lại nói: “Để anh bảo người ở lại dẫn đường cho em.” Gia-cốp từ khước: “Không cần, anh ạ. Anh đã tỏ lòng thương em là quý lắm rồi.” |
979 | GEN 33:18 | Kể từ ngày lìa xứ Pha-đan A-ram, Gia-cốp đi đường bình an đến xứ Ca-na-an, và hạ trại trước thành phố Si-chem. |
1025 | GEN 35:13 | Kế đó, Đức Chúa Trời ngự lên khỏi nơi này. |
1028 | GEN 35:16 | Gia-cốp cùng gia đình rời Bê-tên ra đi. Khi gần đến Ép-ra-ta, Ra-chên chuyển bụng và đau đớn dữ dội. |
1039 | GEN 35:27 | Rốt cuộc, Gia-cốp về đến nhà cha mình Y-sác tại Mam-rê, thành phố Ki-ri-át A-ra-ba (nay gọi là Hếp-rôn), cũng là nơi cư ngụ của Áp-ra-ham ngày trước. |
1052 | GEN 36:11 | Con trai của Ê-li-pha là Thê-man, Ô-ma, Xê-phô, Ga-tam, và Kê-na. |
1056 | GEN 36:15 | Đây là các cháu nội của Ê-sau trở thành đại tộc trưởng: Các đại tộc là hậu tự của Ê-li-pha, con trưởng nam của Ê-sau và A-đa: Đại tộc Thê-man, đại tộc Ô-ma, đại tộc Xê-phô, đại tộc Kê-na, |
1067 | GEN 36:26 | Con của Đi-sôn là Hem-đan, Ếch-ban, Ích-ran, và Kê-ran. |
1083 | GEN 36:42 | Kê-na, Thê-man, Míp-xa, |
1094 | GEN 37:10 | Lần này, cha quở trách Giô-sép: “Mộng mị gì kỳ lạ thế! Không lẽ cha mẹ, anh em đều phải cúi rạp trước mặt con sao?” |
1103 | GEN 37:19 | Họ bàn tính với nhau: “Kìa, thằng chuyên nằm mộng sắp đến đây. |
1109 | GEN 37:25 | Khi các anh của Giô-sép đang ngồi ăn, họ chợt thấy một đoàn lái buôn A-rập cỡi lạc đà chở nhũ hương, dầu thơm, và nhựa thơm từ xứ Ga-la-át thẳng tiến xuống Ai Cập. |
1112 | GEN 37:28 | Khi các lái buôn A-rập đến nơi, họ kéo Giô-sép lên khỏi giếng và bán em cho người A-rập được hai mươi lạng bạc. Giô-sép bị đem xuống Ai Cập. |
1114 | GEN 37:30 | Không thấy em đâu cả, Ru-bên thất vọng, xé áo, và chạy đến bảo các em: “Đứa bé mất tích rồi. Biết làm sao bây giờ.” |
1119 | GEN 37:35 | Các con trai và con gái cố gắng an ủi cha, nhưng ông gạt đi: “Không! Cha cứ khóc nó cho đến ngày xuôi tay nhắm mắt.” Gia-cốp thương tiếc Giô-sép vô cùng. |