Wildebeest analysis examples for:   vie-vieovcb   M    February 11, 2023 at 19:54    Script wb_pprint_html.py   by Ulf Hermjakob

41  GEN 2:10  Một con sông phát nguyên từ Ê-đen tưới khắp vườn; từ đó, sông chia ra bốn nhánh.
48  GEN 2:17  trừ trái của cây phân biệt thiện ác. Một khi con ăn, chắc chắn con sẽ chết.”
70  GEN 3:14  Đức Chúa Trời Hằng Hữu quở rắn: “Vì mày đãm điều ấy, nên trong tất cả các loài gia súc và thú rừng, chỉ có mày bị nguyền rủa. Mày sẽ bò bằng bụng, và ăn bụi đất trọn đời.
98  GEN 4:18  Hê-nóc sinh Y-rát. Y-rát sinh Mê-hu-gia-ên. Mê-hu-gia-ên sinh Mê-tu-sa-ên. Mê-tu-sa-ên sinh Lê-méc.
103  GEN 4:23  Một m, Lê-méc nói với vợ: “Này, A-đa và Si-la, hãy nghe tiếng ta; hãy nghe ta, hỡi vợ của Lê-méc. Ta đã giết một người, vì nó đánh ta, và một người trẻ vì nóm ta bị thương.
118  GEN 5:12  Khi Kê-nan 70 tuổi, ông sinh Ma-ha-la-lê.
119  GEN 5:13  Sau khi sinh Ma-ha-la-lê, Kê-nan còn sống thêm 840m và sinh con trai con gái.
121  GEN 5:15  Khi Ma-ha-la-lê 65 tuổi, ông sinh Gia-rết.
122  GEN 5:16  Sau khi sinh Gia-rết, ông Ma-ha-la-lê còn sống thêm 830m và sinh con trai con gái.
123  GEN 5:17  Ma-ha-la-lê thọ 895 tuổi.
127  GEN 5:21  Khi Hê-nóc 65 tuổi, ông sinh Mê-tu-sê-la.
128  GEN 5:22  Sau khi sinh Mê-tu-sê-la, Hê-nóc sống thêm 300m, đồng đi với Đức Chúa Trời, và ông có thêm con trai con gái.
130  GEN 5:24  ông đồng đi với Đức Chúa Trời, tận hưởng liên hệ gần gũi với Ngài. Một ngày kia thình lình ông biến mất, vì Đức Chúa Trời đem ông đi.
131  GEN 5:25  Khi Mê-tu-sê-la 187 tuổi, ông sinh Lê-méc.
132  GEN 5:26  Sau khi sinh Lê-méc, Mê-tu-sê-la còn sống thêm 782m và sinh con trai con gái.
133  GEN 5:27  Vậy, Mê-tu-sê-la thọ 969 tuổi.
172  GEN 7:12  Mưa liên tiếp bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.
182  GEN 7:22  Mọi loài có hơi thở, sống trên mặt đất đều chết hết.
183  GEN 7:23  Mọi sinh vật trên mặt đất đều bị hủy diệt, từ loài người cho đến loài thú, loài bò sát, và loài chim trời. Tất cả đều bị quét sạch khỏi mặt đất, chỉ còn Nô-ê và gia đình cùng mọi loài ở với ông trong tàu được sống sót.
229  GEN 9:23  Sem và Gia-phết lấy áo choàng vắt vai, đi giật lùi vào trại và phủ cho cha. Mặt họ quay ra bên ngoài, nên không nhìn thấy cha trần truồng.
237  GEN 10:2  Con trai Gia-phết là Gô-me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc, và Ti-ra.
241  GEN 10:6  Con trai Cham là Cút, Mích-ra-im, Phút, và Ca-na-an.
248  GEN 10:13  Mích-ra-im là tổ phụ các dân tộc Lu-đim, A-na-mim, Lê-ha-bim, Náp-tu-him,
258  GEN 10:23  Con trai A-ram là U-xơ, Hu-lơ, Ghê-te, và Mách.
265  GEN 10:30  Họ định cư từ miền Mê-sa cho đến ngọn đồi Sê-pha ở phía đông.
296  GEN 11:29  Áp-ram và Na-cô cưới vợ. Vợ Áp-ram là Sa-rai; vợ Na-cô là Minh-ca, con gái Ha-ran. Em Minh-ca là Ích-ca.
305  GEN 12:6  Áp-ram vào sâu trong xứ Ca-na-an, đến gần Si-chem, và dựng trại bên cây sồi tại Mô-rê.
337  GEN 13:18  Áp-ram liền dời trại đến chùm cây sồi của Mam-rê, tại Hếp-rôn, và ông lập bàn thờ cho Chúa Hằng Hữu.
342  GEN 14:5  Một m sau, Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh đem quân chinh phạt người Rê-pha-im tại Ách-ta-rốt Cát-na-im, người Xu-xim tại Cham, người Ê-mim tại đồng bằng Ki-ri-a-ta-im,
350  GEN 14:13  Một người chạy thoát và đến báo tin cho Áp-ram, người Hê-bơ-rơ, ngụ tại chòm cây sồi của Mam-rê, người A-mô-rít. Mam-rê, bà con của ông là Ếch-côn, và A-ne cùng kết ước với Áp-ram.
355  GEN 14:18  Mên-chi-xê-đéc, vua Sa-lem cũng là thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao, đem bánh và rượu ra đón Áp-ram.
356  GEN 14:19  Mên-chi-xê-đéc chúc phước lành cho Áp-ram rằng: “Cầu Đức Chúa Trời Chí Cao, Ngài là Đấng sáng tạo trời đất ban phước lành cho Áp-ram.
357  GEN 14:20  Đức Chúa Trời Chí Cao đáng được ca ngợi, vì Ngài đã giao nạp quân thù vào tay ngươi!” Áp-ram dâng cho Mên-chi-sê-đéc một phần mười tài sản và chiến lợi phẩm.
361  GEN 14:24  Tôi không lấy gì cả, ngoại trừ số thực phẩm mà đám gia nhân đã ăn và phần chiến lợi phẩm chia cho các chiến sĩ đã theo tôi chiến đấu. Hãy để cho A-ne, Ếch-côn, và Mam-rê lãnh phần của họ đi.”
373  GEN 15:12  Mặt trời vừa lặn, Áp-ram chìm vào một giấc ngủ thật say. Bóng tối dày đặc ghê rợn phủ xuống bao bọc ông.
426  GEN 18:1  Chúa Hằng Hữu lại xuất hiện cùng Áp-ra-ham tại cánh đồng Mam-rê. Áp-ra-ham đang ngồi tại cửa trại dưới tàng cây sồi trong lúc trời nắng nóng.
431  GEN 18:6  Áp-ra-ham vội vã vào trại và bảo Sa-ra:Mau lên! Lấy ba đấu bột lọc nhồi đi rồim bánh nhỏ.”
435  GEN 18:10  Một vị bảo: “Độ một m nữa, Ta sẽ trở lại đây thăm con; khi đó, Sa-ra, vợ con, sẽ có một con trai!” Sa-ra đứng sau lưng vị ấy tại cửa trại, nên nghe rõ lời hứa này.
475  GEN 19:17  Một thiên sứ bảo họ: “Chạy nhanh lên kẻo mất mạng! Đừng ngoảnh lại hay ngừng lại bất cứ đâu ở đồng bằng. Hãy trốn ngay lên núi, kẻo bị vạ lây!”
481  GEN 19:23  Mặt trời vừa mọc, Lót chạy đến nơi và vào thành Xoa.
489  GEN 19:31  Một m, đứa chị bảo em: “Cha đã già và bây giờ trai tráng trong vùng đều chết hết, không còn ai đến lập gia đình với chị em mình.
495  GEN 19:37  Cô chị sinh một con trai và đặt tên Mô-áp. Ông là tổ phụ của dân tộc Mô-áp ngày nay.
550  GEN 22:2  Chúa phán: “Hãy bắt Y-sác, đứa con một mà con yêu quý, đem đến vùng Mô-ri-a, và dâng nóm tế lễ thiêu trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho con.”
568  GEN 22:20  Sau đó, có người báo cho Áp-ra-ham: Minh-ca đã sinh con trai cho Na-cô, em ông!”
571  GEN 22:23  (Bê-tu-ên là cha của Rê-bê-ca). Tổng cộng đượcm người con trai từ Minh-ca.
572  GEN 22:24  Rê-u-ma, vợ lẽ của Na-cô, sinh Tê-ba, Ga-ham, Ta-hách, và Ma-a-ca.
581  GEN 23:9  Vui lòng bán cho tôi hang núi Mạc-bê-la ở cuối khu đất của anh ta. Tôi xin trả đúng thời giá để mua hang ấym nghĩa trang cho gia đình.”
587  GEN 23:15  Miếng đất trị giá 400 miếng bạc, nhưng chỗ bà con quen biết có nghĩa gì đâu! Xin ông cứ an táng bà đi.”
589  GEN 23:17  Vậy, Áp-ra-ham mua cánh đồng của Ép-rôn tại Mạc-bê-la, gần Mam-rê, gồm cánh đồng có hang đá và tất cả cây cối trong cánh đồng.
591  GEN 23:19  Áp-ra-ham an táng vợ, là Sa-rai, tại Ca-na-an, trong hang núi Mạc-bê-la, gần Mam-rê (còn gọi là Hếp-rôn).
602  GEN 24:10  Quản gia chọn mười con lạc đà chuyên chở đủ các loại bảo vật của chủ và lên đường. Đến thành phố của Na-cô, xứ Mê-sô-pô-ta-mi,
607  GEN 24:15  Quản gia chưa dứt lời cầu nguyện thì Rê-bê-ca vác bình ra đến giếng. Nàng là con của Bê-tu-ên, cháu bà Minh-ca. Bà này là vợ Na-cô, em của Áp-ra-ham.
616  GEN 24:24  Nàng đáp: “Tôi là con gái ông Bê-tu-ên, cháu cụ Minh-ca. Ông nội tôi là cụ Na-cô.
633  GEN 24:41  Một khi anh đã đến thăm gia đình ta, nếu họ không chịu gả, anh khỏi mắc lời thề nguyện này.’
636  GEN 24:44  mà cô ấy đáp:Mời ông uống nước, và tôi cũng sẽ múc nước cho các lạc đà ông uống nữa”—thì cô ấy đúng là người vợ Chúa chọn cho con trai chủ con.’
638  GEN 24:46  Cô lập tức hạ bình xuống khỏi vai và đon đả đáp:Mời ông uống nước, và tôi cũng sẽ múc nước cho các lạc đà ông uống nữa.’ Cho tôi uống đã khát xong, cô lại múc nước cho các lạc đà tôi uống.
639  GEN 24:47  Tôi hỏi: ‘Cô con ai?’ Cô đáp: ‘Tôi là con của Bê-tu-ên, cháu hai cụ Na-cô và Minh-ca.’ Tôi đã đeo vòng và đôi xuyến cho cô.
655  GEN 24:63  Một buổi tối, Y-sác ra ngoài đồng suy ngẫm, chợt thấy một đoàn lạc đà.
661  GEN 25:2  Bà sinh cho người sáu đứa con: Xim-ran, Giốc-chan, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác, và Su-ách.
663  GEN 25:4  Ma-đi-an sinhm con trai: Ê-pha, Ê-phe, Hê-nóc, A-bi-đa, và Ên-đa. Đó là dòng dõi bà Kê-tu-ra.
668  GEN 25:9  Y-sác và Ích-ma-ên, hai con trai người, an táng người trong hang Mạc-bê-la, gần Mam-rê, thuộc cánh đồng của Ép-rôn, con trai Xô-ha, người Hê-tít
672  GEN 25:13  Các con trai của Ích-ma-ên là: Trưởng nam Nê-ba-giốt, Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-sam,
673  GEN 25:14  Mích-ma, Đu-ma, Ma-sa,
688  GEN 25:29  Một m, Ê-sau đi săn về, mệt lả, và thấy Gia-cốp đang nấu nồi xúp thơm ngào ngạt.
717  GEN 26:24  Một đêm, Chúa Hằng Hữu xuất hiện và phán cùng Y-sác: “Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, cha con. Con đừng sợ, vì Ta ở với con và ban phước lành cho con. Ta sẽ cho dòng dõi con gia tăng đông đảo vì cớ Áp-ra-ham, đầy tớ Ta!”
719  GEN 26:26  Một m, Vua A-bi-mê-léc cùng với quân sư là A-hu-sát, và Phi-côn, tướng chỉ huy của ông, từ Ghê-ra đến thăm Y-sác.
734  GEN 27:6  Rê-bê-ca gọi Gia-cốp và bảo rằng:Mnghe cha con chuyện trò với Ê-sau và bảo anh con đi săn thú rừng,
747  GEN 27:19  Gia-cốp thưa: “Con là Ê-sau, con đầu lòng của cha. Con đãm như cha dặn bảo. Đây, món thịt rừng cha thích. Mời cha ngồi dậy và ăn, rồi cha chúc phước lành cho con.”
755  GEN 27:27  Gia-cốp đến hôn cha. Y-sác ngửi mùi thơm của áo Ê-sau và long trọng chúc phước:Mùi hương của con trai ta chẳng khác nào hương hoa đồng nội mà Chúa Hằng Hữu ban phước!
759  GEN 27:31  Ê-sau cũng nấu món ăn ngon cha thích nhất và dọn lên mời cha. Ê-sau thưa: “Cha ơi, con đem thịt rừng về đây. Mời cha ngồi dậy, dùng đĩa thịt, và cha sẽ chúc phước cho con.”
783  GEN 28:9  Ê-sau đi đến Ích-ma-ên, bác mình, và cưới thêm cô vợ thứ ba. Nàng tên là Ma-ha-lát, con Ích-ma-ên, cháu nội Áp-ra-ham, em của Nê-ba-giốt.
811  GEN 29:15  Một m, La-ban bảo Gia-cốp: “Không lẽ vì tình bà con ruột thịt mà cháum việc không công sao? Cháu muốn cậu trả lương bao nhiêu?”
845  GEN 30:14  Một m, giữa mùa gặt lúa mì, Ru-bên ra đồng ruộng, hái được mấy trái táo rừng, và đem về biếu mẹ. Ra-chên bèn xin Lê-a một vài trái.
923  GEN 31:49  La-ban nói tiếp, “Vì thế, đống đá này cũng được gọi là ‘Tháp Canh’ (Mích-pa)” vì La-ban giải thích: “Cầu Chúa Hằng Hữu canh giữ cháu và cậu khi ta xa cách nhau.
931  GEN 32:3  Khi Gia-cốp thấy họ, ông reo mừng: “Đức Chúa Trời ngự tại nơi này!” Rồi ông gọi chỗ ấy là Ma-ha-na-im.
942  GEN 32:14  Tốim ấy, Gia-cốp ở lại Ma-ha-na-im và chọn các món quà để biếu Ê-sau.
949  GEN 32:21  thêm: “Này, Gia-cốp, đầy tớ ngài, đang theo sau chúng tôi.” Gia-cốp tự nhủ: “Ta gửi các tặng phẩm này trước đểm Ê-sau nguôi giận. Mong rằng nhờ đó, Ê-sau sẽ tiếp ta tử tế khi gặp mặt.”
982  GEN 34:1  Một m, cô Đi-na (con gái của Lê-a và Gia-cốp) đi thăm các thiếu nữ trong thành phố.
1039  GEN 35:27  Rốt cuộc, Gia-cốp về đến nhà cha mình Y-sác tại Mam-rê, thành phố Ki-ri-át A-ra-ba (nay gọi là Hếp-rôn), cũng là nơi cư ngụ của Áp-ra-ham ngày trước.
1054  GEN 36:13  Gia tộc Rê-u-ên, con trai của Bách-mát gồm có Na-hát, Xê-rách, Sam-ma, Mích-xa. Ấy là các cháu của Bách-mát, cũng là vợ Ê-sau.
1058  GEN 36:17  Các đại tộc do Rê-u-ên, thứ nam của Ê-sau và Bách-mát, sinh ra trong xứ Ca-na-an: Đại tộc Na-hát, đại tộc Xê-rách, đại tộc Sam-ma, và đại tộc Mích-xa.
1064  GEN 36:23  Con của Sô-banh là Anh-van, Ma-na-hát, Ê-banh, Sê-phô, và Ô-nam.
1076  GEN 36:35  Sau khi Hu-sam chết, Ha-đát, con Bê-đa lên kế vị. Vua này là người chỉ huy quân đội đánh bại quân Ma-đi-an tại xứ Mô-áp và dời đô về A-vít.
1077  GEN 36:36  Sau khi Ha-đát chết, Sam-la, ở xứ Ma-rê-ca lên kế vị.
1080  GEN 36:39  Sau khi Ba-anh Ha-nan chết, Ha-đát lên kế vị. Tên thành người là Ba-u; hoàng hậu là Mê-hê-ta-bê-ên, con Mát-rết, cháu Mê-sa-háp.
1083  GEN 36:42  Kê-na, Thê-man, Míp-xa,
1084  GEN 36:43  Mác-đi-ên, Y-ram. Tất cả các đại tộc ấy đều là dòng dõi của Ê-sau, tổ phụ của người Ê-đôm.
1087  GEN 37:3  Gia-cốp yêu thương Giô-sép hơn các con khác vì Giô-sép sinh ra lúc ông đã cao tuổi. Một m, Gia-cốp cho Giô-sép món quà đặc biệt—một cái áo choàng nhiều màu sặc sỡ.
1089  GEN 37:5  Một đêm, Giô-sép nằm mộng; sáng dậy, Giô-sép liền thuật cho các anh nghe, nên càng bị họ ganh ghét.
1094  GEN 37:10  Lần này, cha quở trách Giô-sép:Mộng mgì kỳ lạ thế! Không lẽ cha mẹ, anh em đều phải cúi rạp trước mặt con sao?”
1096  GEN 37:12  Một m, các anh Giô-sép dắt các bầy vật đến đồng cỏ Si-chem.